Tên di sản : Chùa Đông Tác
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 318/QĐ – UBND
Giới thiệu
Qua điều tra, khảo sát đã khẳng định một cách chính xác về quy mô kiến trúc xưa của chùa Đông Tác là rất bề thế và rộng rãi. Trước đây chùa Đông Tác có các hạng mục như sau:
Chùa chính (gồm 5 gian tiền chùa và 2 gian hậu cung):
Nhà tổ (gồm 5 gian).
Nhà thờ mẫu (tức phủ Thiên Tiên) gồm đằng trước 3 gian và hậu cung chuôi vồ.
Nhà khách 5 gian
Tam quan 3 tầng mái
Giếng chùa
Ao chùa
Ruộng chùa
Về hướng thì chùa chính, nhà tổ, nhà thờ mẫu và tam quan xưa đều hướng mặt về phía Tây – Tây Nam. Riêng nhà khách thì quay mặt về phía đông.
Tất cả mọi kiến trúc chùa chính, nhà tổ, nhà khách, nhà mẫu đều là kiến trúc gỗ được chạm khắc cầu kỳ, công phu. Theo các già làng thì các kiến trúc gỗ này đều làm theo kiểu chồng rường, kẻ bẩy.
Chùa chính bố cục theo kiểu chữ Đinh. 5 gian tiền chùa được làm bằng gỗ lim, lợp ngói và có tường 3 mặt. Mặt tiền có cửa bức bàn và hiên rộng với hàng cột đá đỡ các đuôi kẽ làm phần mái thêm vững chắc. Từ sân lên chùa có 7 cấp. Trước chùa là sân gạch, vườn hoa và cổng Tam quan.
Phủ Thiên Tiên (tức nhà thờ mẫu) nằm về phía đông gần sát chùa. Kiến trúc cũng theo hình chữ đinh. Gồm 3 gian tiền đường và hậu cung kiểu chuôi vồ. Phía trước cũng có sân khá rộng. Hai bên cuối sân phía trước phủ mẫu là lầu cô, lầu cậu (như hai nhà bia nhỏ vậy).
Bên phải chùa chính, thụt về phía sau là ngôi nhà tổ 5 gian, quay mặt về phía Tây – Tây Nam như chùa chính và nhà mẫu.
Ngoài cùng bên phải là nhà khách 5 gian. Phía Tây nhà khách là nhà bếp. Phía trước ngoài cùng của sân và vườn hoa là cổng tam quan 3 tầng mái.
Ở trong khuôn viên đất của chùa còn có các cây cổ thụ như cây trôi và cây gạo.
Trước cổng tam quan là đường làng, sát đường là dãy ao của chùa quanh năm tỏa ngát hương sen. Ngoài ra, ở gần chùa còn một giếng cổ, dân gọi là giếng chùa uống nước rất ngon. Ngoài ra, chùa còn có khu vườn chùa và ruộng chùa ở liền kề ở bên hông và đằng sau các kiến trúc của nhà chùa.
Tất cả mọi cảnh quan, kiến trúc xưa của chùa Đông Tác vẫn còn khá nguyên vẹn đến năm 1975. Trong chống Mỹ cứu nước, bom Mỹ dội xuống khu vực Hàm Rồng, Đông Tác như mưa, nhưng rất lạ là khu vực chùa lại không bị tàn phá (chỉ duy nhất một lần bị một quả rốc két phóng xuống gần đó làm sạt một góc tam quan. Đó là năm 1967). Vì vậy mà dân rất tin đây là ngôi chùa thiêng.
Mãi tới sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, chùa mới bị phá đi.
Tuy chùa không còn nhưng đất vẫn còn nên trong thời điểm Nhà nước cho phục hưng các di tích lịch sử như những năm vừa qua nên chùa được xây dựng trở lại với quy mô nhỏ hơn trước nhưng cũng rất khang trang và đầy đủ nội thất tương pháp các loại.
Từ trước tới nay, người làng Đông Tác vẫn luôn tự hào về ngôi chùa và ngôi đình của mình.
Cho đến bây giờ, các bậc cao niên trong làng vẫn còn nhớ và đọc ngân nga cho lớp con cháu nghe bài mục lục ngợi ca phong cảnh làng xóm với những di sản văn hoá chùa, đình, ao, núi, xứ đồng, đường đi, cây cối v.v
Tuy cảnh trí hiện tại đã có nhiều thay đổi, nhưng ao chùa, giếng chùa, đường làng, ngõ xóm, xứ đồng vẫn còn đây. Và tại khu đất chùa cũ, không phải chỗ chùa chính mà là chỗ đến mẫu sát cạnh – dù là trong khu vực khuôn viên đất chùa xưa, một ngôi chùa mới vẫn với cái tên “Đông Tác”, “Long Nhượng”, “Long Khánh” và “Thiên Tiên” ấy đã mọc lên, tuy không quy mô bề thế được như xưa, nhưng dẫu sao cũng làm cho người dân địa phương và những người xa xứ có điều kiện đến chùa làng để thắp hương thờ phật rồi hàn huyên ôn lại những kỉ niệm truyền thống, êm đềm, sống động của một thời đã qua cũng rất đáng nhớ và cũng rất đáng tự hào.
Ngôi chùa mới bây giờ cũng có kiểu kiến trúc hình chữ Công gồm 3 gian tiền đường và nhà hậu cung kiểu chuôi vồ.
Nhà tiền đường được làm bằng gỗ lim, xây tường bất độc nhưng rất cao. Từ mặt nền lên tới thượng lương cao 6m. Còn từ đất lên đến đỉnh đốc là 7m.
Hiên chùa rộng 8m, sâu 1,7m. Trong lòng chùa cũng rộng 8m và sâu vào trong 8m. Trong 3 gian tiền đường thì gian giữa rộng 3,1m, còn 2 gian bên mỗi gian rộng 2,15m.
Kiến trúc gỗ của nhà tiền đường không làm theo kiểu chồng rường kẻ bẩy mà làm theo kiểu gác chếnh cũng rất vững chắc. Nói chung, về chạm khắc trên gỗ không có gì đặc biệt.
Nhà hậu cung nối liền với tiền đường có chiều rộng 3m, sâu 4,3m, còn 2 bên nách hậu cung có cửa trước ra là phòng sự tăng ở, sinh hoạt cũng khá chật.
Trước chùa là một sân gạch dài 8m, rộng 5,8m. Tiếp đó là tam nhỏ, hẹp nhưng trang trí bố cục rất hài hoà cân đối với ngôi chùa.
Uỷ ban nhân dân phường và Thành phố dự định sau khi di tích được công nhận sẽ quy hoạch lại và chuyển chùa vào khu vực ao chùa thì mới phát huy tác dụng hiệu quả hơn và chỉ có như vậy thì mới hạn chế được tiếng động của tàu xe qua lại, đồng thời mới có thể tổ chức lễ hội một cách đông đúc được, còn vị trí hiện giờ (tuy cũng là đất chùa cũ) quá hẹp chỉ có trên 200m (với chiều rộng 8m và chiều sâu hơn 17m) nên mỗi lần vào lễ chùa số người đến rất hạn chế. Nhưng dẫu sao, với việc dựng lại ngôi chùa mới nhân dân trong, ngoài địa phương cũng rất đồng tình ủng hộ vì đã đáp ứng được yêu cầu nguyện vọng về tín ngưỡng cho tất cả những ai sùng phật.
Các hiện vật trong di tích:
Rất may mắn là năm 1975 tuy chùa bị phá, nhưng nhân dân địa phương vẫn cất giữ bảo vệ được tất cả 8 pho tượng cổ gồm:
1 pho tam thế
1 pho Nam Tào
1 pho Bắc Đẩu
1 pho Đức Ông
1 pho Đức Thánh
3 pho Tam Thánh (gồm: Di Đà, Quan Âm, và Đại Thế Chí)
Toàn bộ số tượng cũ này đều được dân mạng trả lại cho chùa. Nhìn phong cách đục, chạm và hoa văn trang trí trên tượng, số tượng cổ trên chắc chắn có niên đại vào thời cuối Lê (thế kỷ XVIII).
Hiện tại, nhân dân thập phương đã công đức để bổ sung thêm cho chùa được 27 pho tượng mới gồm:
1 pho Toà Cửu Long
1 pho Phật nghìn mắt nghìn tay
1 pho Phật bà Quan âm
1 pho Đại thế chí
1 pho Địa tạng
1 pho Phật tổ
1 pho Quan trên
1 pho Quan dưới
1 pho Bà Chúa bản đền
7 pho Hội đồng các quan
5 pho Ngũ vị tôn ông
3 pho Tam toà thánh mẫu
(Tuy là tượng mới nhưng do thợ làng nghề ở Nam Định làm nên vẫn đảm bảo yếu tố mĩ thuật truyền thống).
Nhìn cách sắp xếp tượng pháp hiện nay thì thấy rõ ràng chùa vừa thờ Phật, vừa thờ hệ thống Mẫu giống nhiều chùa chưa có khung mẫu hoặc nhà mẫu riêng. Nếu sau này chùa mới được xây dựng chỗ ao chùa theo đúng quy mô xưa thì chùa hiện tại sẽ là nhà thờ Mẫu (tức phủ Thiên Tiên như tên gọi trước đây).
Việc chùa – nơi thờ Phật lại có thờ cả Mẫu là hiện tượng phổ biến ở Việt Nam từ thời cuối Lê và Nguyễn đến sau này. Cần phải phân biệt cung Mẫu, phủ Mẫu hay đền thờ Mẫu ở trong khu vực chùa là khác với phủ Mẫu ở khu vực độc lập khác. Vì ở Thanh Hoá nói riêng và đồng bằng Bắc Bộ nói chung, Phật giáo thời cuối Lê phải dựa vào Mẫu, phối hợp với Mẫu để cùng tồn tại và phát triển. Có cung Mẫu và nhà thờ Mẫu trong chùa, lượng người đến lễ bái, thờ tự sẽ đông hơn. Thế kỷ XVII vì ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo, nhà Lê – Trịnh (thời Lê Trung Hưng) đã có lúc cấm đoán và tiêu diệt đạo Mẫu nhưng không thể làm được. Vì đây là thứ tín ngưỡng bản địa thông thoáng, gần gũi với mọi tầng lớp xã hội (từ giàu, nghèo đến sang, hèn ai ai cũng rất rùng mộ). Trên thực tế những chùa không có cung Mẫu hoặc nhà thờ Mẫu cũng sẽ trở nên u tịch, trầm lắng và thiếu sôi động. (Nhưng số này rất hiếm gặp). Tại chùa Đông Tác, nhờ có phủ Thiên Tiên trong khuôn viên chùa mà trước đây trong ngày hội rước bóng, lưu lượng khách thập phương kéo đến tới hàng vạn người là một minh chứng rõ ràng về sự hoà đồng và dựa vào nhau giữa Phật giáo và đạo Mẫu trong không gian tín ngưỡng của hầu hết các làng Việt cổ truyền.
Ngoài hệ thống tượng Phật, tượng Mẫu trong chùa chúng ta còn thấy có nhiều hiện vật mới được sắp xếp khá đầy đủ trên các ban thờ như đỉnh, lư hương, chân đèn, chân nến, chim hạc v.v...đều bằng đồng. Ngoài ra còn các loại mâm bồng, quả hộp, lọ hoa, lục bình bằng gỗ, bằng sứ vv...Đặc biệt, các tín đồ phật tử trong, ngoài địa phương đã cung tiến được 4 quả chuông đồng (đúc theo phong cách chuông đồng thời Nguyễn). Hai chuông lớn đều có chiều cao 1,2m và có đường kính miệng 0,60m. Còn 2 chuông nhỏ cao 0,80m và có đường kính miệng 0,40m.
Bên cạnh các hiện vật trong nội thất (gồm cả cũ và mới), ở phía trước tam quan, nhà chùa đã thu giữ được một số tấm bia đá chữ Hán (tất cả đều là bia công đức loại vừa và nhỏ) có tấm còn nguyên, có tấm chỉ còn một nửa và nhiều chỗ chữ đã có hiện tượng bị mờ và mòn mất chữ. Các nhà Hán Nôm đã kì công phiên âm, dịch nghĩa cả 7 tấm bia của chùa và đã tóm tắt nội dung từng tấm bia một để giới thiệu trong sách Địa chí thành phố Thanh Hoá như sau:
Bia dựng năm Đoan Khánh thứ 6 (1509) ở chùa Long Nhượng (tức chùa Đông Tác), tổng Thọ Hạc. Đây là bia lớn nhất có kích thước 1,80m x 1,00m, có 22 dòng chữ, mỗi dòng từ 13 – 40 chữ. Bia được khắc chạm hoa văn rồng mây cuốn nhau ở riềm bia. Nội dung ghi về việc vợ chồng ông Nguyễn Liên ở xã Đông Sơn, tổng Thọ Hạc có lòng sùng đạo đã góp tiền hàng công xây giếng chùa và mua đất trồng cây cho làng nên được làng lập bia ghi tên những người có công góp tiền. Cuối bia là bài vịnh ca ngợi công đức. Đây là tấm bia duy nhất thời Lê (đầu thế kỷ XVI) còn sót lại.
Bảo Ngãi chi hậu: Dựng năm Khải Định thứ 3 năm 1918 tại chùa thôn Đông Tác. Kích thước 0,85m x 0,52m. Mặt bia có 12 dòng chữ, mỗi dòng từ 1 – 26 chữ. Nội dung ghi về việc bà Lê Thị Diệu tự bỏ 150 quan tiền và 1 mẫu ruộng gửi giỗ.
Ký kỵ bi ký: Dựng năm Khải Định thứ 9 (1924) ở chùa Đông Tác. Kích thước 0,63m x 0,38m có 9 dòng chữ, mỗi dòng có 3 – 4 chữ. Nội dung ghi về việc sửa chữa phủ Thiên Tiên là có sự đóng góp cung tiến của bà Lê Thị Đào và bà Hoàng Thị Quê.
Ký kỵ bi ký: Dựng năm Bảo Đại thứ 4 (1929) ở chùa Đông Tác. Kích thước 0,80m x 0,58m. Mặt bia có 10 dòng chữ mỗi dòng có từ 5 – 18 chữ. Nội dung ghi về việc bà Lê Thị An cúng 50 đồng bạc và 1 mẫu ruộng gửi giỗ nhân dịp sửa chữa phủ Thiên Tiên.
Công đức tự bị ký: Dựng năm Bảo Đại thứ 4 (1929) ở phủ Thiên Tiên chùa Đông Tác kích thước 0,97m x 0,36m. Có 12 dòng chữ, mỗi dòng từ 17 – 25 chữ. Nội dung ghi về việc ông Nguyễn Vỹ cúng một mẫu ruộng và 120 quan tiền.
Trùng tu thiện điện sở: Dựng năm Bảo Đại thứ 4 (1929) tại phủ Thiên Tiên chùa Đông Tác (tức Long Khánh tự). Kích thước 0,77m x 0,45m. Có 2 dòng chữ mỗi dòng 20 chữ. Nội dung ghi tên những người đóng góp cho việc trùng tu phủ Thiên Tiên.
Ký kỵ bi ký: Dựng năm Bảo Đại thứ 8 (1933) ở chùa Đông Tác (Long Khánh tự). Kích thước 0,70m x 0,50m. Có 6 dòng chữ, mỗi dòng từ 10 – 15 chữ. Nội dung ghi về việc bà Tôn nữ Thị Liên cũng tiến 3 sào ruộng và 40 đồng gửi giỗ cho cha là Tôn Thất Phả và Mẹ.
Hậu phật bị ký: Dựng năm Bảo Đại thứ 8 (1933) ở bệ thờ chùa Đông Tác. Kích thước 0,63m x 0,38m. Có 9 dòng chữ, mỗi dòng từ 3 – 14 chữ. Nội dung ghi về việc dân bản xã tu sửa chùa Long Khánh. Người trong xã cung tiến tiền, ruộng, chi phí đèn hương và gửi giỗ gia đình.
(Xem địa chí thành phố Thanh Hoá, Nxb Văn hoá - Thông tin năm 1999, từ trang 479 – 506).
Hiện tại, với các pho tượng cổ và những tấm bia công đức còn lại đã trở thành những hiện vật vô giá giúp chúng ta đánh giá một cách khá trung thực về giá trị lịch sử và tên gọi của chùa Đông Tác.
Hơn 5 thế kỷ trôi qua, nhưng với tất cả những gì còn lại đây sẽ còn có tác dụng nhắc nhở chúng ta cần nâng niu, bảo tồn, phát huy một di sản văn hoá rất có ý nghĩa - đó là chùa Đông Tác. Và trong một tương lai gần, phát huy sự đóng góp tự nguyện của nhân dân gần, xa cùng sự quan tâm của Nhà nước chắc chắn chùa Đông Tác được bảo quản tốt.